Giai thuong quang cao sang tao viet nam 2023

Chuyện Bến Nghé xưa trong mắt bà cụ xóm Bàn Cờ

Tờ báo Tết xưa, báo “Cách Mạng Quốc Gia” ra đời cách nay gần 65 năm (1957), có một bài viết quý giá từ cuộc phỏng vấn do ký giả Thanh Hùng thực hiện khi ông phát hiện được một bà cụ lúc đó đã trên 100 tuổi. Bà cụ này sinh ra tận thời vua Thiệu Trị và còn nhớ một số chuyện thời ấy khi bà còn nhỏ, lúc người Pháp chưa đến chiếm Nam kỳ làm thuộc địa.

Người được phỏng vấn là cụ bà Lê Thị Huê, nhà ở số 547A con đường lớn xóm Bàn Cờ, nay thuộc quận 3 (không rõ bây giờ là đường nào trong khu này). Lúc kể chuyện, cụ Huê đã 115 tuổi. Bà cụ còn tỉnh táo, có thể nói chuyện rành mạch.

Khi ký giả Thanh Hùng trên đường tìm đến nhà cụ Huê, ông thấy người ta bày sạp hàng buôn bán lặt vặt trước nhà nên lối đi vào khá chen chúc. Nhà cụ Huê trước có tấm bảng hiệu kẻ hai chữ “Hải Hoài”. Cụ Huê đang ngồi lẩm nhẩm như đọc kinh khi khách đến. Kế bên cụ, có một ông già khoảng chừng hơn 70 tuổi hom hem nằm ngủ trên bộ ván gần đó. Ông già đó là con trai của cụ Huê.

Sau khi được ông con trai, lúc này đã thức dậy, kê sát vào tai cho mẹ biết có nhà báo đến thăm, cụ Huê đồng ý tiếp chuyện khách. Nhìn bề ngoài, cụ không đến nỗi quá già lão. Tóc của cụ còn chỗ đen chỗ trắng, da mồi. Mắt cụ còn tinh, cử chỉ còn khỏe mạnh, nói chuyện còn rành rẽ nhưng tai nghe không tốt, đôi lúc người con phải kề vào tai mà nhắc lại lời nhà báo. Người con trai tên là Trần Văn Mạnh, không lập gia đình, đạp xích lô nuôi mẹ. Ông Mạnh là con thứ sáu trong nhà, còn người em thứ bảy ở Cầu Muối cũng nghèo nên chẳng giúp được gì.

243006209-10218546251282346-3178293036846598662-n-1632975654.jpg

Một khu chợ nhóm họp ở Bến Nghé TK 19. Ảnh trong tư liệu manhhai

Nhà cụ Huê nằm trên mảnh đất vuông vắn, mái lợp tôn, vách ván. Trước kia, cụ ở khu Cầu Muối nhưng nhà bị cháy nên được chính quyền Ngô Đình Diệm cấp cho căn này. Vì khó khăn, cụ phải cho thuê nửa căn nhà, lấy mỗi tháng 400 đồng. Ngoài khoản thu trên, thỉnh thoảng cụ được lối xóm và bạn hàng trong chợ Bàn Cờ biếu cho miếng bánh, con cá hay mớ rau, chưa kể nguồn thu kiếm được từ chiếc xe xích lô của con trai.

Cụ Huê kể về thân thế của mình: Hồi xưa, ba má của cụ có một căn nhà lá lụp xụp cất trên bờ sát khu vực ngã ba sông Sài Gòn với rạch Bến Nghé, đúng ngay địa điểm sau này người Pháp dựng cột cờ Thủ Ngữ (nay là khu vực bến Bạch Đằng nhìn ra bến Nhà Rồng). Mùa xuân năm 1842, một năm sau khi vua Thiệu Trị lên ngôi, cô bé Huê ra đời dưới mái nhà tranh. Là con đầu lòng, khi lên ba tuổi, Huê có thêm đứa em gái, rồi lại có thêm đứa em gái thứ hai. Vài năm sau, Huê lên 11 tuổi, song thân lần lượt qua đời, để lại cho Huê hai đứa em 9 tuổi và 7 tuổi. Là chị cả, không cách nào khác Huê phải vào đời sớm, lo nuôi hai đứa em khờ. Lúc đó, Sài Gòn còn lơ thơ những ngôi nhà lá, nhiều đồng ruộng. Cô bé Huê lấy nghề cấy lúa thuê, bắt cá ngoài đồng làm kế sinh nhai.

Đến năm Huê được 18 tuổi (1860), hai em gái của cô được bà cô và bà dì mang về nuôi, còn cô kết duyên với ông Trần Văn Thú. Lấy nhau một thời gian, ông Thú đầu quân vào lính, dần dà lên chức Đội Sáu. Nhờ vậy, cuộc sống của cô, khi ấy đã là bà Huê, đỡ vất vả hơn trước. Nhưng bà vẫn giữ nếp sống tiện tặn. Hằng ngày, ông Thú tay súng vai gươm vào đồn; bà ra đồng cày cấy, bắt cá. Cuộc sống gia đình giản dị nhưng hạnh phúc. Bà Huê sinh cho ông tất cả 13 người con trai. Đến khoảng năm 1936-1937 (không nhớ chính xác), ông Thú từ trần. Đám con cái chỉ có ba đứa ở lại với bà, mười đứa còn lại đi theo người Pháp từ khi lớn lên. Trong ba người con ở lại, người thứ ba thọ 80 tuổi mới chết năm qua, còn lại hai người như đã nói ở trên.

Khi ký giả hỏi một câu thường được đặt ra đối với người sống đại thọ, là bí quyết để được như vậy, cụ Huê cho biết khi về già thường ăn cháo, thỉnh thoảng mới ăn cơm. Món bà ưa thích là trái cây, cháo trắng và sữa. Còn lúc trẻ có gì ăn nấy, cơm rau mắm ngày hai bữa. Từ nhỏ đến lúc hơn trăm tuổi, bà bệnh nặng ba lần, còn thỉnh thoảng nhức đầu chóng mặt uống vài viên thuốc là hết. Ký giả Thanh Hùng cho rằng, bí quyết sống thọ của bà ở đây chính là sự thanh đạm trong ăn uống.

Quan sát nhà cụ Huê, ký giả thấy có điều đặc biệt là trong nhà vừa có khám thờ bày ảnh Chúa Giê-su, vừa có một bàn thờ để bát hương, bài vị và ảnh Đức Phật Thích Ca. Bà cụ giải thích: “Trước kia các cụ tôi theo đạo Phật và chồng tôi cũng thờ Phật. Sau tôi suy nghĩ nước ta có hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên Chúa giáo, hai đạo cùng khuyên người ta làm điều lành, tránh điều dữ. Vì thế, tôi thờ cả Chúa cả Phật. Ngày Chủ nhật tôi cầu kinh, ngày Rằm và mùng Một tôi niệm Phật. Phật và Chúa phù hộ cho tôi sống lâu, cũng có lẽ phải!”. Cụ cười, phô bộ hàm không còn chiếc răng nào, chỉ còn nướu đỏ nhẵn thín.

242516499-10218546251722357-7762625635090743457-n-1632975680.jpg

Cụ bà Lê Thị Huê, 115 tuổi ở thời điểm 1957 ở xóm Bàn Cờ. Ảnh đăng trên báo CMQG số Xuân 1957.

Cụ Huê kể về những cái Tết ở Sài Gòn thời còn nhỏ: “Sài Gòn thời gian đó, hơn 100 năm trước (tính đến năm 1957) có tên là Bến Nghé. Đồng lúa và đất hoang cỏ mọc chiếm hai phần ba diện tích. Đêm Ba mươi Tết, người Bến Nghé thức dậy thắp nhang đón Giao thừa trong tiếng ếch kêu, cóc nghiến răng, muỗi vo ve, tạo nên khung cảnh nhộn nhịp nhưng thật ra là... ghê rợn. Ngày đó, dân Bến Nghé truyền miệng rằng, ai đi ra đường trong đêm Giao thừa sẽ bị ma bắt đưa xuống rạch Bến Nghé, vậy nên ai nấy không dám ra khỏi nhà sau 9 giờ tối. Ngoài đường giờ đó chỉ có bầy đom đóm và họa hoằn lắm mới có một nhóm lính đi tuần mang theo hai, ba bó đuốc lớn, vừa để soi đường vừa khỏi sợ ma nhát rồi dẫn xuống rạch. Qua đêm Giao thừa, sau 5 giờ sáng dân chúng mới lục tục ra đường rồi đi chúc Tết. Thời đó, ai cũng nghèo khổ, đến ngày Tết cũng thiếu ăn tới nỗi buổi trưa mùng Một đã phải ra ruộng mò cua, bắt cá để có cái ăn cùng với vài ngọn rau dưa bứt ngoài vườn. Mừng xuân trong cảnh thanh bần như vậy đã quen thuộc nên cảm thấy bình thường. Không khí Tết thời ấy không rộn ràng như sau này, không pháo, không cờ bạc, chỉ có rượu đế và tiếng chiêng là mang những đặc điểm của ngày Tết.

242390065-10218546252042365-73340184670403015-n-1632975679.jpg

Đua voi ở Bến Nghé năm 1864. Ảnh trong tư liệu manhhai

Cụ chỉ cho khách xem bức tranh sơn thủy đặt trên bàn thờ tổ tiên, mua trong cái Tết thời Tây mới đến. Vợ chồng cụ lúc đó vẫn sống trong mái tranh nghèo gần rạch Bến Nghé. Mùng Một Tết năm ấy, chồng cụ rảnh rỗi việc binh nên đi chơi, thấy bức tranh đẹp bèn mua về thờ. Đó là tranh do một thợ vẽ người Tàu, màu sắc còn đẹp và bền, giữ mãi tới giờ. Qua bao lần tản cư, nhà cháy... cụ vẫn giữ được bức tranh của chồng để lại. Đêm Giao thừa năm đó, lính Tây từ trong đồn bắn súng ầm ầm chào xuân, tấp nập ồn ào hơn hẳn. Đến sáng hôm sau, cờ xí trưng đầy, dân chúng lũ lượt ra xem. Tây trong thành cũng kéo ra đứng xem người Việt ăn Tết. Tuy nhộn nhịp như vậy, cụ không dám ở nhà, phải chạy tuốt vô Chợ Lớn ở nhờ nhà ông Đốc phủ Hương, vì chồng trước đi lính cho nhà Nguyễn, chống Tây nên sợ họ bắt đi.

Trước khi khách ra về, cụ Huê nói rằng mình rất sung sướng được sống trong cảnh thái bình. “Tết năm nay ắt là vui lắm. Tôi cầu Phật, lạy Chúa cho dân mạnh nước giàu”.

Câu chuyện này lược lại từ bài báo “Ngày xuân đi thăm cụ già nhất nước Việt Nam” có kèm một ảnh chân dung in không rõ. Tác giả không đưa ra những bằng chứng chứng minh tuổi chính xác của bà cụ, nhưng có thể đúng như cụ nói, căn cứ vào những chuyện cụ đã trải qua, qua từng mốc thời gian.

*Trích bài viết “Những người đã thấy Sài Gòn xưa” trong cuốn “Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm” do công ty sách Phan book thực hiện 2021